Người đang chấp hành án tù có thể kết hôn hay không?

Người đang chấp hành án tù có thể kết hôn hay không?

Quyền kết hôn được xem là một trong những quyền cơ bản của con người, được bảo vệ bởi hiến pháp và pháp luật ở hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, có nhiều người đặt ra câu hỏi rằng: liệu người đang chấp hành án tù có quyền thực hiện quyền này hay không? Đây là một vấn đề nhạy cảm và gây tranh cãi, bởi nó liên quan đến sự cân bằng giữa quyền tự do cá nhân và trách nhiệm trước pháp luật.

A couple dressed in formal wedding attire, exchanging rings in a beautiful, intimate setting. The bride is wearing a white wedding gown with lace details, holding a bouquet, while the groom is in a black tuxedo. They are standing in front of a decorated altar with flowers and candles. The mood is joyful and romantic, with soft lighting enhancing the warm atmosphere of the ceremony.

(Ảnh minh họa)

1. Kết hôn là gì?

Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

Kết hôn là sự kiện pháp lý và xã hội đánh dấu việc hai người chính thức thiết lập mối quan hệ vợ chồng và được thừa nhận bởi pháp luật. Việc kết hôn không chỉ là cam kết tình cảm mà còn có các quyền và nghĩa vụ pháp lý đi kèm giữa hai bên trong các lĩnh vực như tài sản, con cái, và thừa kế. Theo truyền thống, kết hôn thường diễn ra giữa hai người yêu thương nhau và mong muốn xây dựng một gia đình, tuy nhiên, các quy định về kết hôn có thể khác nhau tùy theo từng quốc gia và văn hóa.

2. Người đang chấp hành án tù có thể kết hôn hay không?

Thứ nhất, về điều kiện kết hôn. Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về điều kiện kết hôn như sau:

“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.

Các tiêu chí này không chỉ nhằm bảo đảm quyền tự do kết hôn mà còn đảm bảo tính hợp lý, trật tự và đạo đức xã hội. Nó đề cập đến khía cạnh về khả năng chịu trách nhiệm, quyền tự do cũng như các chuẩn mực của con người.

Thứ hai, về các hành vi bị cấm trong hôn nhân. Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.

Những hành vi bị cấm trong hôn nhân có mục đích bảo vệ quyền lợi của các cá nhân tham gia và giúp duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa, đạo đức của xã hội. Việc tuân thủ những quy định này là nền tảng để xây dựng một môi trường gia đình và xã hội lành mạnh, công bằng và văn minh.

Thứ ba, người đang thi hành án bị tước những quyền công dân gì. Điều 44 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, quy định về tước một số quyền công dân như sau:

“1. Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tước một hoặc một số quyền công dân sau đây:
a) Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước;
b) Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.
2. Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo”
.

Như vậy, có thể thấy, trong quy định của pháp luật về những quyền công dân bị tước khi chấp hành án không bao gồm việc kết hôn miễn là họ đáp ứng đủ các điều kiện như: độ tuổi hợp pháp, sự tự nguyện, năng lực hành vi dân sự… cũng như không thuộc các trường hợp bị cấm như đã liệt kê. Trong trường hợp cá nhân muốn kết hôn mà đang phải chấp hành án tù thì có thể làm đơn đề nghị trại giam và UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên tạo điều kiện làm thủ tục đăng ký kết hôn.