Nộp đơn ly hôn ra tòa đã được coi là ly hôn hay chưa? Nếu ngoại tình trong khoảng thời gian này có được coi là vi phạm pháp luật hay không ?

Nộp đơn ly hôn ra tòa đã được coi là ly hôn hay chưa? Nếu ngoại tình trong khoảng thời gian này có được coi là vi phạm pháp luật hay không ?

Việc nộp đơn ly hôn ra tòa là bước đầu tiên trong quy trình pháp lý nhằm chấm dứt một cuộc hôn nhân, nhưng điều này chưa đồng nghĩa với việc ly hôn đã chính thức hoàn tất. Tòa án cần phải thụ lý, xem xét các yếu tố liên quan như phân chia tài sản, quyền nuôi con, và các vấn đề khác trước khi ra quyết định cuối cùng. Trong thời gian chờ đợi tòa án phán quyết, vợ chồng vẫn được coi là có mối quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vì vậy, nếu xảy ra hành vi ngoại tình trong giai đoạn này, nó vẫn có thể bị coi là vi phạm pháp luật tùy thuộc vào quy định cụ thể của từng quốc gia hay địa phương, đặc biệt trong trường hợp luật pháp có những điều khoản liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi trong hôn nhân cho đến khi ly hôn chính thức được công nhận.

Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

1. Ly hôn là gì ? Điều kiện để được coi là đã ly hôn

Căn cứ theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về khái niệm ly hôn cụ thể như sau: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.

Theo đó, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi cả hai bên thuận tình ly hôn, cần phải thực hiện gửi đơn xin ly hôn ra Tòa để xem xét, khi thấy đủ căn cứ thì sẽ ra quyết định hoặc bản án ly hôn. Nếu như mới chỉ tính đến thời điểm nộp đơn ra Tòa thì khi đó quan hệ vợ chồng vẫn được xem là tồn tại hợp pháp.

2. Ngoại tình trong thời gian nộp đơn ly hôn tại Tòa có vi phạm hay không ?

Căn cứ theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định như sau:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Đồng thời, tại Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng có quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình cụ thể như sau:

“1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình”.

Như vậy khi hai người vẫn còn đang là vợ chồng hợp pháp mà một trong hai có hành vi ngoại tình thì đều vi phạm quy định của pháp luật.

3. Xử lý hành vi ngoại tình khi chưa ly hôn

Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định:

“Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng

1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn”.

Theo đó, trường hợp chưa ly hôn mà ngoại tình với người khác có thể bị phạt hành chính là 5.000.000 đồng. Đồng thời, tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định rằng:

“Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.

Có thể thấy, khi đã phạt hành chính mà còn tái phạm sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng – 1 năm. Vợ, chồng hoặc con của người đang có gia đình tự sát hoặc đã có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng mà vẫn duy trì sẽ bị phạt tù từ 06 tháng – 03 năm.